NGHĨA VỤ CẤP DƯỠNG CỦA CHA MẸ ĐỐI VỚI CON



10/12/2018

Thời điểm phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng

Thông thường, quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ và con phát sinh từ thời điểm con được sinh ra. Việc thực hiện quyền và nghĩa vụ không đơn thuần là vấn đề mang tính pháp lý, mà thực chất còn là nhu cầu rất đỗi bản năng của mỗi người. Khi không trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con, cha, mẹ sẽ thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng để thay thế. Việc cấp dưỡng cho con khi cha mẹ ly hôn thường được thể hiện thông qua bản án, quyết định giải quyết ly hôn. Trong trường hợp nàythời điểm quan hệ cấp dưỡng phát sinh được xác định theo sự thoả thuận của các bên hoặc theo quyết định của Toà án.

Pháp luật chưa có quy định chi tiết về việc cấp dưỡng cho con khi cha, mẹ sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng. Nếu rơi vào trường hợp cấp dưỡng cho con khi bị hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên thì quan hệ cấp dưỡng sẽ chính thức đặt ra khi có quyết định hạn chế quyền của Toà án. Thực chất, trong cả hai trường hợp: cấp dưỡng khi ly hôn và cấp dưỡng khi cha, mẹ bị hạn chế quyền đều có sự chuyển hoá giữa quyền nuôi dưỡng sang quyền cấp dưỡng. Dưới góc độ pháp lý, hai khoảng thời gian này được thực hiện tiếp nối nhau mà không có sự gián đoạn. Tuy vậy, thực tế cho thấy, cũng không ít những trường hợp một bên cha, mẹ hoàn toàn không thực hiện trách nhiệm của mình trong cả việc nuôi dưỡng lẫn cấp dưỡng. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi của con, mà còn gây khó khăn cho đời sống của người trực tiếp nuôi dưỡng trẻ. Trong một số vụ việc, một bên đã yêu cầu bên vợ/ chồng còn lại trả chi phí nuôi con trong thời gian họ không chung sống với nhau và một người không thực hiện nghĩa vụ đối với con.

Nếu như đối với cả hai trường hợp kể trên, quan hệ cấp dưỡng phát sinh một cách mặc nhiên trên cơ sở sự tồn tại mối quan hệ cha, mẹ - con, thì quan hệ cấp dưỡng khi cha mẹ không tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp lại là một điều khác biệt. Việc cấp dưỡng giữa các chủ thể chỉ có thể diễn ra (dưới góc độ pháp lý) khi có phán quyết của Toà án thừa nhận mối quan hệ cha- con / mẹ - con. Điều này đã đặt ra vấn đề về thời điểm phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.

Việc đóng góp tài sản để nuôi dưỡng hoặc cấp dưỡng con là những quyền và nghĩa vụ rất đỗi tự nhiên giữa cha mẹ, con. Dù pháp luật không có quy định cụ thể nhưng có thể hiểu rằng, quan hệ cấp dưỡng giữa cha mẹ và con phát sinh từ thời điểm trẻ được sinh ra. Tuy vậy, cũng không ít những trường hợp con được sinh ra một khoảng thời gian rồi mới được xác định cha hoặc mẹ. Vấn đề đặt ra là việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng giữa người được xác định là cha, mẹ và con phát sinh kể từ thời điểm trẻ được sinh ra hay từ thời điểm có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền công nhận quan hệ cha mẹ con.

Ví dụ, trong một vụ việc, Toà án đã xác định: “riêng số tiền cấp dưỡng nuôi con từ khi trẻ sinh ra đến nay là 33 tháng (từ 06/11/2007 đến 11/8/2010) bị đơn phải cấp dưỡng một lần ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật để trả một phần các chi phí mà nguyên đơn đã bỏ ra để nuôi con. Tương tự như vậy, ở một vụ việc khác, Toà án đã ra phán quyết xác định là cha có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con từ trước thời điểm bản án xác định quan hệ cha, con phát sinh hiệu lực pháp luật.

Có thể thấy hướng giải quyết chung của Toà án trong trường hợp yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng là căn cứ theo thời điểm trẻ được sinh ra để xác định thời điểm cấp dưỡng. Phán quyết vì vậy có thể buộc một người cấp dưỡng ngay cả trước khi bản án thừa nhận quan hệ cha mẹ, con phát sinh hiệu lực (quan hệ cấp dưỡng phát sinh từ khi con được sinh ra). Điều này giúp bảo vệ lợi ích của người con và quyền lợi của người trực tiếp nuôi dưỡng con.

Tuy vậy, điều này đặt ra một vấn đề: liệu rằng khi có yêu cầu xác định cha, mẹ cho con khi con đã thành niên, người được xác định có phải thực hiện cấp dưỡng một lần cho toàn bộ thời gian từ khi con sinh ra đến khi con đủ 18 tuổi hay không. Hơn nữa, về bản chất, số tiền này được hiểu là tài sản của con (cấp dưỡng cho con) hay “chi trả một phần chi phí nuôi con”.

Vấn đề yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng đi cùng việc xác định cha, mẹ cho con (trong trường hợp cha mẹ không tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp) là điều diễn ra khá phổ biến ở Hoa Kỳ. Pháp luật liên bang cấm áp dụng hiệu lực hồi tố với những trường hợp xác định công nhận cha, mẹ sau khi con được sinh ra. Điều này có nghĩa rằng đương sự không thể yêu cầu người được xác định cha hoặc mẹ thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng từ khi con được sinh ra cho đến khi bản án công nhận quan hệ cha, mẹ con có hiệu lực. Điều này được thể hiện khá rõ nét thông qua quy định45 CFR 303.106 - quy trình cấm hồi tố yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Theo đó, việc sửa đổi yêu cầu cấp dưỡng mang tính hồi tố chỉ có thể diễn ra từ ngày bản án xác định nghĩa vụ cấp dưỡng phát sinh hiệu lực.

Chúng tôi cho rằng, không nên buộc bên cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ trước khi có yêu cầu xác định quan hệ cha mẹ, con - cấp dưỡng cho khoảng thời gian diễn ra trong quá khứ. Quan hệ cấp dưỡng được đặt ra nhằm tạo điều kiện và sự hỗ trợ cho trẻ được cấp dưỡng, đồng thời san sẻ gánh nặng về tài chính đối với bên trực tiếp nuôi dưỡng con. Mặc dù quan hệ cấp dưỡng và nuôi dưỡng mặc nhiên phát sinh từ khi con được sinh ra, tuy nhiên, nếu trong vụ việc cụ thể người con vẫn có thể phát triển thể chất và tinh thần mà không cần có sự hỗ trợ này thì việc cấp dưỡng có tính hồi tố không nên được đặt ra. Hơn nữa, với một số phán quyết của toà án như nói trên, chúng ta rất khó xác định được bản chất và mục đích của số tiền “cấp dưỡng” bù đắp cho khoản thời gian chưa được xác định quan hệ cha - con. Số tiền này nên được xác định là tài sản của con hay tài sản hỗ trợ cho bên trực tiếp nuôi con? Nếu việc không được cấp dưỡng gây sự khó khăn trong đời sống, người có quyền và lợi ích bị xâm hại nên có sự chủ động để bảo vệ quyền lợi của mình một cách nhanh chóng, kịp thời. Việc cấp dưỡng mang tính hồi tố cho khoảng thời gian đã diễn ra chỉ nên được áp dụng cho trường hợp bên có quyền lợi liên quan đã nỗ lực (trong khả năng có thể) yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nhưng bên còn lại trốn tránh thực hiện. Đối với những trường hợp còn lại, quan hệ cấp dưỡng chỉ nên đặt ra khi người có quyền yêu cầu Toà án giải quyết sự việc.

Trong một số trường hợp đã nêu, người vợ đã yêu cầu chồng “hoàn trả chi phí nuôi con trong thời gian ly thân”. Đây cũng được xem là giải pháp buộc một bên phải thực hiện trách nhiệm với con và bên vợ/chồng còn lại. Đối với những hoàn cảnh khác, khi nam nữ không tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp, giữa họ không có nhiều sự ràng buộc (đặc biệt là khi họ không chung sống với nhau như vợ chồng). Tuy vậy, nếu giữa họ có con chung thì cả hai đều có nghĩa vụ như nhau đối với con. Việc một bên không thực hiện trách nhiệm với con gây ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của trẻ và tạo gánh nặng đối với người còn lại. Theo chúng tôi, không nên đặt ra vấn đề cấp dưỡng cho cả thời gian trước khi một người được xác định tư cách cha/ mẹ. Bản chất của cấp dưỡng là việc cung cấp vật chất để đáp ứng cho những nhu cầu cần thiết, giúp trẻ phát triển một cách ổn định và đầy đủ. Khi thời gian trôi qua nhưng trẻ vẫn có thể phát triển bình thường mà không cần đến khoản tiền cấp dưỡng thì nghĩa vụ này không cần thiết phải đặt ra với khoảng thời gian trong quá khứ. Tuy nhiên, với người trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ, việc yêu cầu hoàn trả một phần chi phí nuôi con là điều có thể. Khi đó, khoản tiền này được xác định một cách cụ thể nhằm chi trả cho bên trực tiếp nuôi con (tương ứng với thời gian phải một mình nuôi dưỡng con và được tính toán dựa trên những chi phí thực tế để nuôi con - chi phí này có thể lớn hơn với mức cấp dưỡng mà Toà án tuyên).

Mức cấp dưỡng

Theo Điều 116 Luật HNGĐ 2014, mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Việc xác định mức cấp dưỡng giữa cha mẹ với con dựa trên hai yếu tố chính: các nhu cầu chính đáng cần được đáp ứng của người con và khả năng tài chính trên thực tế của cha, mẹ.

Thứ nhất, mức cấp dưỡng được xác định dựa trên nhu cầu thiết yếu của người con được cấp dưỡng. Ngoại trừ những nhu cầu chung mà bất cứ một cá nhân nào cũng cần được đáp ứng để duy trì sự sống (như ăn, mặc, ở), nhu cầu thiết yếu của mỗi người thường được xác định dựa trên độ tuổi. Càng ở độ tuổi phát triển, nhóm nhu cầu thiết yếu càng có xu hướng mở rộng hơn. Chẳng hạn, bên cạnh những nhu cầu cơ bản để duy trì sự sống, người ta bắt đầu hình thành nhu cầu học tập, đi lại, thông tin liên lạc. Cùng với đó, nhu cầu thiết yếu còn được xác định trên hoàn cảnh cụ thể của mỗi người. Có những nhu cầu là cần thiết với người này nhưng với người khác lại không được đặt ra. Ví dụ như với một số người, việc khám, chữa bệnh là vô cùng cần thiết, nhưng cũng có những người gần như không có nhu cầu này trên thực tế. Vì vậy, mặc dù nhu cầu thiết yếu là những yêu cầu cơ bản đối với tất cả mọi người, nhưng việc xác định nhu cầu cụ thể của một người trên thực tế lại cần có sự xem xét cẩn trọng từ nhiều yếu tố và cơ sở khác nhau. 

Dưới góc độ văn bản pháp luật và thực tiễn xét xử, có thể nhận thấy rằng, liên quan đến người được cấp dưỡng, mức cấp dưỡng chủ yếu được xác định dựa trên nhu cầu thiết yếu của người này. Tuy vậy, việc giới hạn mức cấp dưỡng trong phạm vi những nhu cầu thiết yếu trong một số trường hợp là chưa thực sự hợp lý. Khi xét đến mức cấp dưỡng cho người con, pháp luật Hoa Kỳ luôn dành một sự quan tâm đặc biệt đến hoàn cảnh về mọi mặt của người con. Theo đó, các yếu tố được chú trọng bao gồm: nguồn tài chính của con, mức sống mà người con có thể được hưởng nếu cha mẹ không ly hôn, điều kiện về thể chất, tinh thần và những nhu cầu về giáo dục của trẻ. Điều này cho thấy việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ luôn hướng đến sự ổn định trong đời sống của con. Nói cách khác, pháp luật hỗ trợ tối đa để quyền lợi của trẻ không thay đổi trong hoàn cảnh được nuôi dưỡng hay cấp dưỡng. Nhu cầu thiết yếu lúc này chỉ được xem xét như là một trong những yếu tố để xác định điều kiện sống của trẻ. 

Thứ hai, mức cấp dưỡng được xác định trên khả năng tài chính của cha mẹ. Khả năng tài chính của cha mẹ có thể được đánh giá thông qua giá trị tài sản mà cha, mẹ sở hữu, nguồn thu nhập cũng như những nghĩa vụ tài sản mà cha, mẹ phải thực hiện. Trong đó, việc xác định nguồn thu nhập của cha mẹ không phải là điều đơn giản. Khái niệm “thu nhập” được hiểu rất khác biệt đối với từng ngành luật khác nhau. Thu nhập được xác định để tính mức cấp dưỡng nên là những nguồn thu có tính ổn định. Điều này xuất phát từ tính chất quan hệ cấp dưỡng giữa cha mẹ và con. Thông thường, mức cấp dưỡng được định sẵn trong một khoảng thời gian dài, những khoản thu nhập tăng hoặc giảm có tính “đột biến” chỉ nên được xác định để yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng. Việc thực hiện nghĩa vụ này cần được diễn ra một cách ổn định để không tạo nên biến động lớn trong đời sống của con được cấp dưỡng.

Vấn đề đặt ra ở đây là ngoài những nguồn thu xuất phát từ hoạt động sản xuất, kinh doanh…, các khoản tiền trợ cấp của cha, mẹ có được xác định là thu nhập để cấp dưỡng hay không. Nếu nguồn thu duy nhất của cha, mẹ là trợ cấp liên quan đến người có công với cách mạng hay các khoản trợ cấp khác thì liệu rằng chúng ta có nên “chia sẻ” một phần số tiền này để cấp dưỡng cho con? Pháp luật HNGĐ vẫn chưa nêu ra quy định cụ thể cho vấn đề này.

Việc sử dụng các khoản thu nhập của cha mẹ để xác định mức cấp dưỡng cho con là điều hợp lý. Quan hệ cấp dưỡng cần hướng đến sự hỗ trợ tốt nhất có thể giữa cha, mẹ đối với con. Mặc dù thu nhập trước hết phải được sử dụng để đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của cha, mẹ. Các khoản tiền trợ cấp của cha, mẹ vẫn có thể được sử dụng để cấp dưỡng cho con nếu các nhu cầu thiết yếu của cha, mẹ đã được đáp ứng.

Như đã phân tích trước đó, việc xác định mức cấp dưỡng thường được xác định dựa trên nhu cầu chính đáng của con và khả năng cấp dưỡng của cha, mẹ. Trên thực tế, Toà án thường căn cứ vào mức lương cơ bản để xác định mức cấp dưỡng cụ thể. Trong một vụ việc, Toà án đã từng tuyên “án sơ thẩm tuyên buộc ông H chịu mức cấp dưỡng nuôi con là 365.000 đồng/tháng, vào thời điểm tháng 3/2011 lương cơ bản là 730.000 đồng/tháng. Tuy nhiên, tại thời điểm xét xử phúc thẩm thì lương cơ bản là 830.000 đồng/tháng. Nên cần điều chỉnh lại mức cấp dưỡng tại thời điểm xét xử phúc thẩm là 415.000 đồng/tháng…”

Như vậy, Toà án đã căn cứ vào mức lương cơ bản để xác định mức cấp dưỡng cho con, với mức cấp dưỡng bằng ½ mức lương cơ bản. Mức cấp dưỡng này là khá thấp, không đủ để đảm bảo quyền lợi của trẻ. Nhưng có một lưu ý là bên cạnh quyền được cấp dưỡng, con còn được bên cha, mẹ còn lại trực tiếp nuôi dưỡng - và vì thế, trách nhiệm chăm sóc và hỗ trợ để con phát triển toàn diện về thể chất, tinh thần được cha, mẹ cùng nhau san sẻ thực hiện.

Pháp luật các bang ở Hoa Kỳ thường quy định mức cấp dưỡng tối thiểu. Tuy vậy, con vẫn được cấp dưỡng trong khả năng chi trả của cha, mẹ. Vấn đề đặt ra là thế nào là “giới hạn thích hợp” khi cha mẹ không phải lúc nào cũng có một khoản thu nhập lớn. Các bang thường áp dụng một trong ba cách sau: xác định mức cấp dưỡng dựa trên thu nhập cao hơn của bên cha hoặc mẹ; đưa ra mức cấp dưỡng cao nhất dựa trên những nhu cầu đặc biệt và mức sống của người con trước khi cha mẹ ly hôn; trong một số trường hợp, Toà án không áp dụng nguyên tắc mà tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể để giải quyết. Các nguyên tắc trên được áp dụng cho cả trường hợp cha, mẹ ly hôn, cũng như trường hợp cha, mẹ chưa từng tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp. Có thể thấy rằng, pháp luật Hoa Kỳ vừa đặt ra những giới hạn nhất định cho việc cấp dưỡng, nhưng đồng thời, mức cấp dưỡng cụ thể cũng là sự vận dụng quy định một cách rất linh hoạt của Toà án. Điều này là vô cùng cần thiết để quyền lợi của con và cha, mẹ tồn tại một cách hài hoà trong quan hệ cấp dưỡng.

Tương tự như vậy, chúng tôi cho rằng, pháp luật Việt Nam cần có hướng dẫn cụ thể hơn về mức cấp dưỡng tối thiểu. Theo cách thức mà rất nhiều Toà án đã đưa ra, mức cấp dưỡng có thể được tính theo mức lương cơ sở theo từng thời điểm khác nhau. Trong hoàn cảnh các nhu cầu cần được đáp ứng ngày càng mở rộng, mức cấp dưỡng không nên thấp hơn ¾ mức lương cơ sở do Nhà nước quy định. Mặc dù bên cấp dưỡng hay bên trực tiếp nuôi dưỡng đều có nghĩa vụ đóng góp tài sản để nuôi dạy con, tuy vậy, mức cấp dưỡng bằng ½ mức lương cơ sở như trong nhiều trường hợp là chưa thực sự đảm bảo quyền lợi của con. Hơn nữa, bên trực tiếp nuôi dưỡng con cần được san sẻ bớt gánh nặng về mặt tài chính trong việc nuôi dạy con.

Ngô Thị Anh Vân, ThS. GV. Khoa Luật Dân sự - Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.

 


Bài viết liên quan

Giải quyết tranh chấp liên quan đến giao dịch

Trong thời gian qua có không ít các tranh chấp liên quan đến giao dịch “đứng tên giùm”. Tuy nhiên, do pháp luật chưa có quy định về giao dịch “đứng tên giùm”, cùng với việc các Tòa án khi giải...

BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG

Một trong những vấn đề khó khăn và hay gây tranh cãi trong các tranh chấp, đó là việc tính toán số tiền bồi thường thiệt hại mà bên vi phạm phải trả cho bên bị vi phạm. Để đòi bồi thường...

Làm gì để được tòa án giải quyết ly hôn khi chồng đang đi tù ?

Cho em hỏi bây giờ em muốn ly hôn, nhưng chồng em hiện giờ thì đang ở trong tù thì em cần những thủ tục gì để có thể ly hôn được ạ ? Chân thành cảm ơn luật sư.